Đặc điểm Bò vàng phương Nam

Giống bò Vàng có chung màu lông vàng, song cũng biểu thị sự đa dạng về ngoại hình như màu sắc lông, tầm vóc cơ thể và được nuôi ở hầu hết các địa phương. Đặc điểm chung nhất của giống là sắc lông màu vàng, da mỏng, lông mịn, tầm vóc nhỏ bé. Bò Vàng có ưu điểm nổi bật là chịu đựng kham khổ tốt, có khả năng chống bệnh tật cao, thích nghi với nhiều vùng khí hậu.

Ngoại hình

Tổng thể một con bò Vàng ở Việt NamMột đàn bò vàng tại Lào

Bò vàng phương Nam đa số có sắc lông màu vàng ở vùng bụng, yếm, bên trong đùi màu vàng nhạt, da mỏng, lông mịn, ngoại hình bò Vàng cân xứng, bò có tầm vóc nhỏ bé, trọng lượng (khối lượng) bò cái từ 160 – 200 kg, bò đực từ 250 – 300 kg. Khối lượng sơ sinh 14–15 kg, lúc trưởng thành con cái nặng 160–200 kg, con đực nặng 250– 280 kg. Khối lượng trung bình của giống bò Vàng từ 2 đến 5 tuổi là 199,06 kg, biến động từ cao nhất 356 kg đến thấp nhất 105 kg. Kết cấu thân hình cân đối, thường con cái trước thấp hậu cao, con đực tiền cao hậu thấp.

Đầu con cái thanh, sừng ngắn, nhỏ, con đực thô, sừng dài chĩa về phía trước, trán phẳng hoặc hơi lõm, trong lúc đó, ở con đực mõm ngắn, con cái tương đối dài, mạch máu và gân mặt nổi rõ, mắt to nhanh nhẹn, mắt tinh lanh lợi. Cổ bò cái thanh, cổ bò đực to, dày, lông thường đen. Yếm kéo dài từ hầu đến vú, cổ có nhiều nếp nhăn nhỏ, Yếm kéo dài từ hầu đến xương ức. Da có nhiều nếp nhăn. U vai con đực cao, con cái không có. Lưng và hông thẳng, hơi rộng. Bắp thịt nở nang. Mông hơi xuôi, hẹp và ngắn. Ngực phát triển tốt, sâu nhưng hơi lép. Bụng to, tròn nhưng không sệ. Bốn chân thanh, cứng cáp; 2 chân trước thẳng, 2 chân sau đi thường chạm kheo.

Riêng đối với Bò Vàng Việt Nam thì rất đa dạng về ngoại hình, thể hiện rõ nhất là khối lượng. Khối lương trung bình của giống bò Vàng Việt Nam từ 2 đến 5 tuổi là 199,06 kg, biến động từ cao nhất 356 kg đến thấp nhất 105 kg. Khối lương giữa các địa phương khác nhau như bò nuôi ở Nghệ An lớn nhất (221,70 kg); tiếp theo là bò nuôi ở Phú Yên (211,78 kg); Lạng Sơn (209,26 kg); Bà Rịa-Vũng Tàu (191,98 kg) và nhỏ nhất là bò nuôi ở Thanh Hoá (189,80 kg). Sự sai khác giữa các giá trị trung bình về Khối lương của giống Vàng Việt Nam nuôi ở các tỉnh là rõ rệt.

Khối lương trung bình của bò đực là 220,80 kg, trong lúc đó bò cái chỉ là 189,10 kg và sự sai khác đó giữa 2 giới tính là rõ rệt. Cũng như khối lượng, kích thước một số chiều đo của bò cũng biến đổi qua các tháng tuổi. Ở tháng đầu, năm đầu, các chiều đo phát triển mạnh, mạnh nhất là chiều dài rồi đến chiều cao vây. Từ 24 tháng tuổi trở đi, các chiều dài phát triển chậm và ổn định vào lúc 60 tháng tuổi. Tuỳ theo điều kiện chăn nuôi, tập quán và trình độ chăn nuôi mà khối lượng, kích thước các chiều đo của bò có thay đổi ít nhiều.

Thể chất

Bò vàng tại Mã LaiBò vàng tại Mã Lai

Giống bò Vàng có một số ưu điểm nổi bật chịu đựng tốt với điều kiện nhiệt đới nóng ẩm, chịu đựng kham khổ tốt, thích nghi với nhiều vùng khí hậu, thích nghi được với phương thức chăn nuôi tận dụng, đầu tư ít; bò thành thục sớm, mắn đẻ, bò có nhược điểm lớn nhất là là tầm vóc nhỏ, không đáp ứng với yêu cầu chăn nuôi thâm canh và hiệu quả kinh tế thấp vì sinh trưởng chậm, năng suất thịt và sữa rất thấp, tỷ lệ thịt xẻ thấp.

Sức kéo trung bình của con cái 380-400 N, con đực 440-490N. Sức kéo tối đa của con cái 1000- 1500N, con đực 1200-1800N. Bò Vàng có khả năng làm việc dẻo dai ở những chân đất nhẹ, có tốc độ đi khá nhanh. Bò vàng được sử dụng chủ yếu cho cày kéo. Khả năng cày kéo của bò tốt, bò dai sức và có thể làm việc được ở nhiều địa hình, chất đất khác nhau. Bò còn là nguồn lực kéo xe được sử dụng ở hầu hết các vùng nông thôn. Giống bò Vàng được sử dụng chủ yếu cho cày kéo, sử dụng làm nguồn lực kéo xe ở các vùng nông thôn.

Do tầm vóc bé nên khả năng cho thịt của bò vàng không cao. Tỷ lệ thịt xẻ thường 38-42%, tỷ lệ thịt tinh 30-33%. ở đực cà và đực thiến, tỷ lệ thịt xẻ có thể đại 53-55%; thịt tinh có thể 38-40%. Năng suất thịt không cao, tỉ lệ thịt xẻ 40-44%. Tuổi phối giống lần đầu vào khoảng 20-24 tháng. Tỉ lệ đẻ hàng năm khoảng 50-80%. Khả năng cho sữa thấp, khoảng 2 kg/ngày trong thời gian 4-5 tháng (chỉ đủ cho con bú). Tuy có bầu vú đẹp, cân đối nhưng khả năng cho sữa của bò vàng không cao khoảng 400–500 kg/chu kỳ 5-6 tháng đủ cho bê bú. Sữa bò vàng thơm, ngon, có tỷ lệ mỡ sữa cao, tỷ lệ mỡ sữa rất cao thường 5% (5-5,5%).

Hệ tiêu hóa

Dạ dày bò có cấu tạo phức tạp bao gồm 4 túi dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế. Dạ cỏ to nhất, chiếm 2/3 dung tích của dạ dày, là túi đặc biệt nhất, tại đây hàng loạt phản ứng sinh hoá học được tiến hành liên tục để phân giải tiêu hoá và hấp thu thức ăn. Từ thượng vị dạ dày có rãnh thực quản hình lòng máng chạy qua dạ cỏ, dạ tổ ong và dạ lá sách. Dạ tổ ong là dạ tiếp theo dạ cỏ được nối với dạ cỏ bằng một miệng lớn, dạ tổ ong gồm nhiều ngăn nhỏ như tổ ong làm tăng bề mặt tiếp xúc với thức ăn và giữ vật lạ lại. Dạ lá sách gồm nhiều lá to nhỏ khác nhau như những trang sách để dễ ép thức ăn nửa lỏng xuống dạ múi khế.

Dạ múi khế có nhiều nếp gấp ở mặt trong để tăng thêm diện tích hấp thụ và có tuyến tiêu hoá như dạ dày đơn của lợn. Hệ vi sinh vật trong dạ cỏ bò bao gồm bacteria, protozoa và nấm. Số lượng bacteria 109- 1010 trong 1 rnl chất chứa, có trên 60 loài đã được xác định số lượng bacteria. Số lượng bacteria của từng loài phụ thuộc rất lớn vào khẩu phần ăn của bò. Protozoa có số lượng ít hơn nhiều so với số lượng bacteria, chúng chỉ có 106 trong 1 ml chất chứa, nhưng vì có kích thước lớn hơn nên tổng sinh khối tương tự như bacteria.